HA LONG NATURE: Bướm chai xanh Graphium sarpedon (Linnaeus, 1758)
Thứ tư - 24/09/2025 07:47
Ngày thu gặp bướm chai xanh, cùng tìm hiểu về loài bướm “Nữ hoàng” này.
Tên tiếng Anh: Common Bluebottle
Bướm chai xanh thuộc bộ cánh vẩy (Lepidoptera), họ Bướm phượng (Papilionidae), chi Graphium
Sinh học sinh thái:
https://www.vncreatures.net/chitiet.php?page=2&loai=3&ID=381
https://www.ifoundbutterflies.org/graphium-sarpedon
https://the-butterfly675.blogspot.com/2009/01/life-history-of-common-bluebottle.html
Pei-Ju Chen, Hiroko Awata, Atsuko Matsushita, En-Cheng Yang and Kentaro Arikawa, 2016. Extreme Spectral Richness in the Eyeof the Common Bluebottle Butterfly, Graphium sarpedon.
Bướm chai xanh thuộc bộ cánh vẩy (Lepidoptera), họ Bướm phượng (Papilionidae), chi Graphium

Đặc điểm nhận dạng: Sải cánh: 80-90mm.
Cả hai giới đều giống nhau. Bướm đực và bướm cái giống nhau nhưng bướm cái thường to hơn, với các cánh rộng hơn.
Cánh trước hẹp và mép ngoài có răng cưa ở cánh sau, kéo dài thành một cái đuôi ngắn ở phần thân. Mặt trên cánh có màu nâu đen với một dải màu xanh lam ở giữa, được chia thành các mảng hình chữ nhật bởi các đường gân đen. Các mảng về phía đỉnh cánh trước có màu xanh lục. Một dải hình lưỡi liềm ở mép dưới cánh sau. Các mảng màu xanh lam cũng có thể nhìn thấy tương tự ở mặt dưới, trên nền màu nâu sô cô la với các mảng màu đỏ bổ sung ở cánh sau.
Cánh trước hẹp và mép ngoài có răng cưa ở cánh sau, kéo dài thành một cái đuôi ngắn ở phần thân. Mặt trên cánh có màu nâu đen với một dải màu xanh lam ở giữa, được chia thành các mảng hình chữ nhật bởi các đường gân đen. Các mảng về phía đỉnh cánh trước có màu xanh lục. Một dải hình lưỡi liềm ở mép dưới cánh sau. Các mảng màu xanh lam cũng có thể nhìn thấy tương tự ở mặt dưới, trên nền màu nâu sô cô la với các mảng màu đỏ bổ sung ở cánh sau.

Ở mọi độ cao trong rừng. Rất phổ biến, cả trong rừng lần thành thị. Thường gặp với số lượng lớn ven suối, vũng nước trong rừng. Sâu của giống Graphium ăn lá các loại cây thuộc họ Na (Annonaceae). Sâu non màu nâu, sâu lớn màu xanh. Nhộng nguỵ trang dạng lá cây. Đây là loài thường có trong vườn và công viên, ở đây chúng dinh dưỡng nhờ hoa và có thể gặp lẫn với các loài bướm khác dọc bờ sông và suối. Có nhiều loài cây vật chủ làm thức ăn cho sâu non thuộc họ Long não Lauraceae, các chi Long não, Màng Tang, Bơ.
Phân bố:
Đây là loài có vùng phân bố từ Ấn Độ qua Trung Quốc đến Đài Loan và Nam Nhật Bản. Nam qua Đông Nam châu Á đến Australia và quần đảo Salomon. Là loài phổ biến khắp nơi và ở Việt Nam. Tên loài được dịch nghĩa từ tiếng Anh.
Giá trị, tình trạng và biện pháp bảo vệ:
Phân bố:
Đây là loài có vùng phân bố từ Ấn Độ qua Trung Quốc đến Đài Loan và Nam Nhật Bản. Nam qua Đông Nam châu Á đến Australia và quần đảo Salomon. Là loài phổ biến khắp nơi và ở Việt Nam. Tên loài được dịch nghĩa từ tiếng Anh.
Là loài bướm thường gặp nhưng chúng đẹp nên thường bị bắt để làm bộ sưu tập. Cần bảo vệ chúng vì đây cũng là loài sinh vật hiền lành làm đẹp cho thiên nhiên và chúng không gây ra dịch hại cho cây trồng. Nên nhân nuôi loài này trong trang trại.

Kết đôi ở bướm chai xanh
Một số giai đoạn trong quá trình biến thái

Trái: trứng được đẻ trên một chồi non. Phải: cận cảnh quả trứng

Sâu non mới nở, 3 mm.

Sâu 1 ngày tuổi, chiều dài: 4mm

Sâu non tuổi 2, chiều dài: 7 mm

Sâu non tuổi 3, chiều dài: 9,5 mm

Hai góc nhìn của sâu bướm tuổi 4, chiều dài: 27 mm

Hai góc nhìn của sâu bướm tuổi 5, chiều dài: 29 mm
Giai đoạn thứ 5 kéo dài 4 ngày và chiều dài cơ thể đạt tới 40-43mm. Về cuối giai đoạn này, cơ thể dần ngắn lại, màu cơ thể chuyển gần như hoàn toàn sang màu xanh lá cây sau khi dải ngang màu vàng và hầu hết các đốm vàng mờ dần. Cuối cùng, sâu bướm nằm nghỉ trên bề mặt lá ở tư thế thẳng đứng và trở thành ấu trùng tiền nhộng. Lưu ý: sâu bướm Bluebottle thông thường cũng có một lỗ thông hơi ở đốt ngực trước.

Quá trình nhộng diễn ra một ngày sau đó. Nhộng treo mình bằng một vành tơ từ bề mặt lá, được cố định thêm bằng một điểm neo chắc chắn ở đầu sau. Nhộng có màu xanh lá cây với một mỏm ngực thon và nhọn tù. Các đường gờ bên và màu vàng chạy từ đốt sống ngực đến đỉnh của mấu ngực nhọn khiến cho nhộng có hình dạng giống như một chiếc lá có gân.

Nhộng

Chui ra khỏi kén
Một số hình ảnh bướm chai xanh trong khuôn viên trường THPT chuyên Hạ Long

Trên bờ tường khu kí túc xá học sinh


Đậu trên cây

Thông tin thú vị: Graphium là một chi lớn phổ biến ở các vùng Úc và New Zealand. Chúng thường có mắt kép lớn, bay rất nhanh và thường xuyên ghé thăm các vũng nước cũng như những bông hoa đầy màu sắc, cho thấy khả năng thị giác cao của chúng.
Cơ chế vật lý của màu sắc cánh đã được nghiên cứu rộng rãi và được phát hiện là khá phức tạp khi có hiện tượng óng ánh phụ thuộc vào góc do một loại vảy dẹt độc đáo (Stavenga và cộng sự, 2010). Màu sắc cánh tinh tế chắc hẳn rất quan trọng đối với tín hiệu thị giác, nhưng thông tin về thị lực của chúng còn hạn chế (Eguchi và cộng sự, 1982). Một nghiên cứu tổ chức quang phổ của mắt kép cho thấy các thụ thể ánh sáng với ít nhất 15 độ nhạy quang phổ khác nhau trong mắt chúng. Chúng tôi đã xác nhận tính xác thực của phát hiện này bằng cách định vị bộ sưu tập rộng lớn các lớp thụ thể ánh sáng này trong võng mạc. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã nghiên cứu cấu trúc và chức năng của mắt bướm xanh (Graphium sarpedon), sử dụng các phương pháp tiếp cận điện sinh lý, giải phẫu và phân tử. Điện sinh lý nội bào cho thấy mắt chứa các thụ thể ánh sáng với 15 độ nhạy quang phổ riêng biệt. Chúng có thể được chia thành sáu lớp thụ thể quang phổ: nhạy cảm với tia cực tím (UV), tím (V), lam (B), lam-lục (BG), lục (G) và đỏ (R). Các lớp B, G và R lần lượt chứa ba, bốn và năm phân lớp. Mười lăm là số lượng kỷ lục các thụ thể quang phổ được ghi nhận cho đến nay trong một mắt côn trùng. Định vị các thụ thể này bằng cách tiêm thuốc nhuộm vào từng thụ thể quang học riêng lẻ sau khi ghi lại độ nhạy quang phổ của chúng. Bốn thụ thể trong số đó được giới hạn ở vùng lưng, tám thụ thể ở vùng bụng, và ba thụ thể tồn tại trên khắp mắt; vùng mắt bụng giàu quang phổ hơn vùng lưng. Các mRNA mã hóa các opsin sắc tố thị giác của một loại tia cực tím, một loại tia xanh lam và ba loại hấp thụ bước sóng dài. Việc định vị các mRNA này bằng phương pháp lai in situ cho thấy mỗi thụ thể quang học ở lưng biểu hiện một mRNA opsin duy nhất, nhưng hơn một nửa số thụ thể quang học ở bụng đồng biểu hiện hai hoặc ba mRNA opsin L. Kiểu biểu hiện này giải thích rõ ràng cấu trúc quang phổ của mắt kép Graphium.
Bướm và ngài thường có thị giác màu sắc tinh vi (Kelber và Pfaff, 1999; Kinoshita và cộng sự, 1999; Kelber và cộng sự, 2002). Thị giác màu sắc của chúng dường như đã tiến hóa từ hệ thống ba màu tổ tiên dựa trên các thụ thể ánh sáng nhạy cảm với tia cực tím, xanh lam và xanh lục (Menzel và Backhaus, 1989; Peitsch và cộng sự, 1992; Lin, 1993; Skorupski và Chittka, 2010; Blackiston và cộng sự, 2011). Hệ thống này sau đó được phát triển bằng cách bổ sung các thụ thể ánh sáng có độ nhạy quang phổ khác nhau, rất có thể là do sự chọn lọc tích cực của các opsin sắc tố thị giác trùng lặp (Briscoe và cộng sự, 2010). Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng độ nhạy của các thụ thể ánh sáng rất khác nhau giữa các loài bướm. Ví dụ, bướm phượng vàng Nhật Bản, Papilio xuthus (họ Papilionini, họ Papilionidae), có sáu lớp thụ thể quang phổ, bao gồm các lớp tia cực tím (UV), tím (V), xanh lam (B), xanh lục (G), đỏ (R) và dải rộng (BB) (Arikawa, 2003).
Tham khảo:Cơ chế vật lý của màu sắc cánh đã được nghiên cứu rộng rãi và được phát hiện là khá phức tạp khi có hiện tượng óng ánh phụ thuộc vào góc do một loại vảy dẹt độc đáo (Stavenga và cộng sự, 2010). Màu sắc cánh tinh tế chắc hẳn rất quan trọng đối với tín hiệu thị giác, nhưng thông tin về thị lực của chúng còn hạn chế (Eguchi và cộng sự, 1982). Một nghiên cứu tổ chức quang phổ của mắt kép cho thấy các thụ thể ánh sáng với ít nhất 15 độ nhạy quang phổ khác nhau trong mắt chúng. Chúng tôi đã xác nhận tính xác thực của phát hiện này bằng cách định vị bộ sưu tập rộng lớn các lớp thụ thể ánh sáng này trong võng mạc. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã nghiên cứu cấu trúc và chức năng của mắt bướm xanh (Graphium sarpedon), sử dụng các phương pháp tiếp cận điện sinh lý, giải phẫu và phân tử. Điện sinh lý nội bào cho thấy mắt chứa các thụ thể ánh sáng với 15 độ nhạy quang phổ riêng biệt. Chúng có thể được chia thành sáu lớp thụ thể quang phổ: nhạy cảm với tia cực tím (UV), tím (V), lam (B), lam-lục (BG), lục (G) và đỏ (R). Các lớp B, G và R lần lượt chứa ba, bốn và năm phân lớp. Mười lăm là số lượng kỷ lục các thụ thể quang phổ được ghi nhận cho đến nay trong một mắt côn trùng. Định vị các thụ thể này bằng cách tiêm thuốc nhuộm vào từng thụ thể quang học riêng lẻ sau khi ghi lại độ nhạy quang phổ của chúng. Bốn thụ thể trong số đó được giới hạn ở vùng lưng, tám thụ thể ở vùng bụng, và ba thụ thể tồn tại trên khắp mắt; vùng mắt bụng giàu quang phổ hơn vùng lưng. Các mRNA mã hóa các opsin sắc tố thị giác của một loại tia cực tím, một loại tia xanh lam và ba loại hấp thụ bước sóng dài. Việc định vị các mRNA này bằng phương pháp lai in situ cho thấy mỗi thụ thể quang học ở lưng biểu hiện một mRNA opsin duy nhất, nhưng hơn một nửa số thụ thể quang học ở bụng đồng biểu hiện hai hoặc ba mRNA opsin L. Kiểu biểu hiện này giải thích rõ ràng cấu trúc quang phổ của mắt kép Graphium.
Bướm và ngài thường có thị giác màu sắc tinh vi (Kelber và Pfaff, 1999; Kinoshita và cộng sự, 1999; Kelber và cộng sự, 2002). Thị giác màu sắc của chúng dường như đã tiến hóa từ hệ thống ba màu tổ tiên dựa trên các thụ thể ánh sáng nhạy cảm với tia cực tím, xanh lam và xanh lục (Menzel và Backhaus, 1989; Peitsch và cộng sự, 1992; Lin, 1993; Skorupski và Chittka, 2010; Blackiston và cộng sự, 2011). Hệ thống này sau đó được phát triển bằng cách bổ sung các thụ thể ánh sáng có độ nhạy quang phổ khác nhau, rất có thể là do sự chọn lọc tích cực của các opsin sắc tố thị giác trùng lặp (Briscoe và cộng sự, 2010). Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng độ nhạy của các thụ thể ánh sáng rất khác nhau giữa các loài bướm. Ví dụ, bướm phượng vàng Nhật Bản, Papilio xuthus (họ Papilionini, họ Papilionidae), có sáu lớp thụ thể quang phổ, bao gồm các lớp tia cực tím (UV), tím (V), xanh lam (B), xanh lục (G), đỏ (R) và dải rộng (BB) (Arikawa, 2003).
https://www.vncreatures.net/chitiet.php?page=2&loai=3&ID=381
https://www.ifoundbutterflies.org/graphium-sarpedon
https://the-butterfly675.blogspot.com/2009/01/life-history-of-common-bluebottle.html
Pei-Ju Chen, Hiroko Awata, Atsuko Matsushita, En-Cheng Yang and Kentaro Arikawa, 2016. Extreme Spectral Richness in the Eyeof the Common Bluebottle Butterfly, Graphium sarpedon.
Tác giả: Nghĩa Nguyễn Tuấn
Bài viết xem nhiều
-
Bác Hồ với quan điểm bảo vệ môi trường thiên nhiên, phát triển kinh tế xanh bền vững
-
Bướm đêm hầu gái (Handmaiden moths )
-
Tìm hiểu các loài rùa biển: 5 trên 7 loài có mặt ở Việt Nam
-
Phát hiện loài cá mập quý hiếm ở Brazil
-
Những điều thú vị về cá tráp biển
-
Tìm hiểu ngành chân khớp (ARTHROPODA)
-
Khám phá đa dạng sinh học tại rừng quốc gia Yên Tử (P1)
-
Đa dạng sinh học trong bài thơ của nhà thơ Trần Đăng Khoa
-
HA LONG NATURE: Điều thú vị ở bướm đêm diều hâu chim ruồi
-
Báo cáo đa dạng sinh học: Bướm đêm cú mèo