10 loài cây ăn thịt: kinh ngạc với những cái bẫy chết người
Chủ nhật - 28/09/2025 09:27
Không phải loài ăn thịt nào cũng có răng… Khi nghe đến từ động vật ăn thịt, bạn nghĩ đến điều gì? Hổ và gấu Bắc Cực ư? À, không phải tất cả các loài ăn thịt đều to lớn như vậy, hay giống động vật có vú như vậy. Cũng có rất nhiều loài thực vật ăn thịt động vật! Trong khi các loài động vật ăn thịt thường săn bắt hoặc tìm kiếm thức ăn, thì các loài cây ăn thịt lại có khả năng di chuyển hạn chế nên phải sử dụng các chiến lược khác. Thay vì phải tự tìm kiếm thức ăn, chúng chờ đợi thức ăn đến, có thể dụ bằng mùi hương ngọt ngào hoặc mật hoa, và rồi… một cái bẫy chết người đang chờ sẵn. Những cái bẫy này có nhiều loại khác nhau, từ những chiếc lá "răng cưa" kêu răng rắc của cây bắt ruồi Venus đến loại keo siro của cây bắt ruồi. Ở Việt Nam đã xác định các loài cây ăn thịt thuộc 3 họ Nắp ấm (Nepenthaceae), Gọng vó (Droseraceae) và Nhĩ cán (Utriculariaceae).
1. Bắt ruồi Venus (Dionaea muscipula)
Chắc chắn là ví dụ nổi tiếng nhất về loài cây ăn thịt, cây bắt ruồi Venus có thể được tìm thấy mọc hoang dã ở các vùng đất ngập nước miền đông Hoa Kỳ (hoặc không mọc hoang dã trong bất kỳ vườn ươm cây nào).
Trong số các loài cây ăn thịt, có năm cách khác nhau để bắt mồi. Các cơ chế bẫy này bao gồm bẫy hố, bẫy giấy bẫy ruồi, bẫy kẹp, bẫy bong bóng và bẫy lồng tôm hùm (pitfall traps, flypaper traps, snap traps, bladder traps, and lobster pot traps).
Bẫy ruồi Venus là ví dụ về bẫy kẹp. Hơi giống bẫy chuột, những chiếc lá có khớp nối sẽ tự động khép lại khi con mồi chạm vào một trong những phần nhô ra giống như lông nhạy cảm trên bề mặt bên trong của lá. Con mồi sau đó bị mắc kẹt phía sau những "răng" gai của cây bắt ruồi và sau đó được tiêu hóa bởi nhựa cây màu đỏ. Quá trình tiêu hóa này mất khoảng 10 ngày, sau đó lá sẽ mở ra trở lại, sẵn sàng cho những con ruồi không hề hay biết.
2. Cây bàng quang thông thường (Utricularia Vulgaris)
Đúng như tên gọi, là ví dụ về bẫy bàng quang. Những bẫy này hoạt động bằng cách tạo ra một khoảng chân không bên trong "bong bóng" của chúng bằng cách bơm nước ra ngoài và sau đó hút con mồi vào thông qua các cửa bẫy có bản lề. Ở các loài thủy sinh, cửa bẫy có lông kích hoạt dài, có tác dụng giải phóng cơ chế chân không khi được kích hoạt bởi các động vật không xương sống nhỏ. Có khoảng 233 loài trong chi phổ biến này và chúng có thể được tìm thấy trong nước ngọt hoặc đất ẩm trên mọi lục địa trừ Nam Cực. Loài cụ thể này, bàng quang thông thường, là một loài thủy sinh trôi nổi tự do được tìm thấy ở châu Âu và châu Á.
Chúng bẫy các sinh vật nhỏ trong các túi nhỏ xíu của chúng. Cửa bẫy hoạt động với tốc độ được xếp vào hàng những chuyển động nhanh nhất được biết đến của thực vật. Được kích hoạt bởi các sợi lông nhô ra trên cửa, túi bẫy mở ra trong khoảng 0,5 mili giây, hút sinh vật vào và đóng lại trong khoảng 2,5 mili giây. Tốc độ này đạt khoảng ba nghìn feet mỗi giây, gần gấp ba lần tốc độ âm thanh. Không tệ đối với một loài thực vật thân thảo.

Quá trình bẫy con mồi
3. Sundews (Drosera genus)
Cây gọng vó là loại bẫy ruồi, sử dụng chất tiết ngọt và dính để thu hút và bẫy con mồi là động vật không xương sống. Chất dính này được tiết ra bởi các tuyến trên lá giống như xúc tu của chúng, chúng chuyển động khi tiếp xúc với con mồi, cuộn vào trong để bẫy và làm con mồi ngạt thở hơn nữa.
Chi thực vật lớn này có thể được tìm thấy ở hầu hết các nơi trên thế giới, nhưng 50% số loài chỉ có ở Úc. Tên gọi "gọng vó" xuất phát từ những giọt chất nhầy lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời, trông giống như sương, nhưng nguy hiểm hơn nhiều...
Chắc chắn là ví dụ nổi tiếng nhất về loài cây ăn thịt, cây bắt ruồi Venus có thể được tìm thấy mọc hoang dã ở các vùng đất ngập nước miền đông Hoa Kỳ (hoặc không mọc hoang dã trong bất kỳ vườn ươm cây nào).
Trong số các loài cây ăn thịt, có năm cách khác nhau để bắt mồi. Các cơ chế bẫy này bao gồm bẫy hố, bẫy giấy bẫy ruồi, bẫy kẹp, bẫy bong bóng và bẫy lồng tôm hùm (pitfall traps, flypaper traps, snap traps, bladder traps, and lobster pot traps).

2. Cây bàng quang thông thường (Utricularia Vulgaris)
Đúng như tên gọi, là ví dụ về bẫy bàng quang. Những bẫy này hoạt động bằng cách tạo ra một khoảng chân không bên trong "bong bóng" của chúng bằng cách bơm nước ra ngoài và sau đó hút con mồi vào thông qua các cửa bẫy có bản lề. Ở các loài thủy sinh, cửa bẫy có lông kích hoạt dài, có tác dụng giải phóng cơ chế chân không khi được kích hoạt bởi các động vật không xương sống nhỏ. Có khoảng 233 loài trong chi phổ biến này và chúng có thể được tìm thấy trong nước ngọt hoặc đất ẩm trên mọi lục địa trừ Nam Cực. Loài cụ thể này, bàng quang thông thường, là một loài thủy sinh trôi nổi tự do được tìm thấy ở châu Âu và châu Á.
Chúng bẫy các sinh vật nhỏ trong các túi nhỏ xíu của chúng. Cửa bẫy hoạt động với tốc độ được xếp vào hàng những chuyển động nhanh nhất được biết đến của thực vật. Được kích hoạt bởi các sợi lông nhô ra trên cửa, túi bẫy mở ra trong khoảng 0,5 mili giây, hút sinh vật vào và đóng lại trong khoảng 2,5 mili giây. Tốc độ này đạt khoảng ba nghìn feet mỗi giây, gần gấp ba lần tốc độ âm thanh. Không tệ đối với một loài thực vật thân thảo.



Quá trình bẫy con mồi
3. Sundews (Drosera genus)
Cây gọng vó là loại bẫy ruồi, sử dụng chất tiết ngọt và dính để thu hút và bẫy con mồi là động vật không xương sống. Chất dính này được tiết ra bởi các tuyến trên lá giống như xúc tu của chúng, chúng chuyển động khi tiếp xúc với con mồi, cuộn vào trong để bẫy và làm con mồi ngạt thở hơn nữa.
Chi thực vật lớn này có thể được tìm thấy ở hầu hết các nơi trên thế giới, nhưng 50% số loài chỉ có ở Úc. Tên gọi "gọng vó" xuất phát từ những giọt chất nhầy lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời, trông giống như sương, nhưng nguy hiểm hơn nhiều...

4. California pitcher plant (Darlingtonia californica)
Giống như tất cả các loài cây nắp ấm khác, loài cây này, còn được gọi là hoa loa kèn rắn hổ mang do hình dạng uốn lượn và lá hình nanh, là một loại bẫy bẫy. Là một loại bẫy thụ động (thay vì bẫy ruồi Venus chủ động), cây nắp ấm dụ côn trùng vào các nắp ấm trơn trượt bằng mùi hương và mật hoa, khiến chúng nhanh chóng mất phương hướng, mệt mỏi và cuối cùng rơi xuống dịch tiêu hóa đang chờ đợi ở đáy ấm.
Loài cây này đặc biệt nguy hiểm, tạo cho con mồi nhiều lối thoát giả tạo, mang lại cho chúng hy vọng trốn thoát nhưng cuối cùng chỉ khiến chúng kiệt sức hơn. Đúng như tên gọi, loài cây này có nguồn gốc từ Hoa Kỳ, chỉ được tìm thấy ở Bắc California và Oregon.
Loài cây này đặc biệt nguy hiểm, tạo cho con mồi nhiều lối thoát giả tạo, mang lại cho chúng hy vọng trốn thoát nhưng cuối cùng chỉ khiến chúng kiệt sức hơn. Đúng như tên gọi, loài cây này có nguồn gốc từ Hoa Kỳ, chỉ được tìm thấy ở Bắc California và Oregon.

5. Cây xoắn ốc, Corkscrew plants (Genlisea genus)
Loại bẫy cuối cùng của các loài ăn thịt là bẫy lồng tôm hùm. Loại bẫy này dễ chui vào nhưng khó thoát ra nhờ những sợi lông nhọn hướng vào trong.
Genlisea, một chi gồm khoảng 30 loài, đều sử dụng cơ chế này để bắt những con mồi nhỏ xíu. Những loài thực vật này rất nhỏ, dài chưa đến 2,5 cm, và con mồi của chúng cũng nhỏ bé tương ứng. Không giống như các loài khác trong danh sách cho đến nay, vốn săn bắt động vật không xương sống, những loài thực vật này chuyên ăn động vật nguyên sinh, những sinh vật đơn bào nhỏ xíu. Khá hiếm gặp, những loài thực vật này chỉ được tìm thấy ở các vùng nhiệt đới của Châu Phi, Madagascar, Trung và Nam Mỹ.
Genlisea, một chi gồm khoảng 30 loài, đều sử dụng cơ chế này để bắt những con mồi nhỏ xíu. Những loài thực vật này rất nhỏ, dài chưa đến 2,5 cm, và con mồi của chúng cũng nhỏ bé tương ứng. Không giống như các loài khác trong danh sách cho đến nay, vốn săn bắt động vật không xương sống, những loài thực vật này chuyên ăn động vật nguyên sinh, những sinh vật đơn bào nhỏ xíu. Khá hiếm gặp, những loài thực vật này chỉ được tìm thấy ở các vùng nhiệt đới của Châu Phi, Madagascar, Trung và Nam Mỹ.

© Getty Images
6. Rainbow plants (Byblis genus)

© Denis Barthel / Creative Commons
Đặc biệt đẹp mắt, những loài thực vật thuộc chi này đôi khi được gọi là cây cầu vồng vì lá của chúng lấp lánh và rực rỡ sắc màu dưới ánh nắng mặt trời. Vẻ ngoài lấp lánh này đến từ lớp chất nhầy dính của chúng, giống như cây gọng vó, chúng là những cái bẫy ruồi.Những loài này có lá thon dài được bao phủ bởi một lớp lông tuyến dày đặc tiết ra chất giống như keo này, thu hút và bẫy côn trùng nhỏ. Tuy nhiên, không giống như cây gọng vó, chúng không thể di chuyển lá để hỗ trợ bẫy mà phải dựa vào đặc tính kết dính của lớp chất nhầy. Chúng có thể được tìm thấy ở miền bắc và tây nam nước Úc.
7. Nepenthes rajah

© Getty Images
Loài cây nắp ấm tiếp theo trong danh sách của chúng ta có khả năng nuốt chửng những con mồi lớn hơn nhiều so với những loài khác. Loài cây nắp ấm Malaysia này được biết đến với khả năng bẫy những loài động vật lớn như chuột chù, ếch, thằn lằn, và thậm chí cả chim trong bẫy của nó.Nó có thể làm được điều này nhờ những chiếc nắp ấm đặc biệt lớn, có thể chứa khoảng 3,5 lít nước! Động vật có xương sống có thể rơi vào những chiếc bẫy tử thần hình chiếc bình này và chết đuối. Sau đó, chúng bị tiêu hóa bởi lượng dịch tiêu hóa dồi dào.
Loài này còn tiêu thụ một nguồn thức ăn thậm chí còn kém ngon hơn cả chuột chù chết đuối - phân chuột chù! Loài cây này có mối quan hệ cộng sinh với chuột chù đến mức đổi lại mật hoa mà chúng liếm khi lơ lửng trên chiếc bình trông giống như nhà vệ sinh, nó sẽ thải ra phân bổ dưỡng của chúng. Mật hoa thậm chí còn có tác dụng nhuận tràng, đảm bảo chúng sẽ đi đến đó chứ không phải đi nơi khác.
8. Aldrovanda vesiculosa

© Getty Images
Loài cây tiếp theo này sở hữu đặc điểm là thành viên sống duy nhất của loài. Còn được gọi là cây bánh xe nước, nó là ví dụ duy nhất của chi Aldrovanda sống dưới nước.Tên gọi thông thường của chúng bắt nguồn từ việc các bẫy kẹp của chúng được sắp xếp thành hình tròn xung quanh một thân cây nổi tự do ở trung tâm. Giống như cây bắt ruồi Venus, chúng bẫy những con mồi nhỏ bên trong các thùy lá có bản lề, được kích hoạt để khép lại khi chạm vào các lông kích hoạt nhạy cảm. Mặc dù rất phổ biến, được tìm thấy ở Châu Âu, Châu Á, Châu Phi và Úc, nhưng loài cây này vẫn rất hiếm, chỉ còn tồn tại trong 50 quần thể được xác nhận trên toàn thế giới và được liệt kê là loài có nguy cơ tuyệt chủng trong Sách Đỏ IUCN về các loài bị đe dọa.
9. Utricularia gibba
Còn được gọi là cây bàng gù, loài hoa vàng xinh đẹp này có thể được tìm thấy mọc nổi trên các vùng nước lầy lội hoặc nước chảy chậm như hồ, ao, đầm lầy và mương. Loài cây này không mọc rễ mà nổi trên mặt nước, tắm mình dưới ánh nắng mặt trời và tạo thành những thảm cành cây lớn, dày đặc đan xen vào nhau. Loài cây này nổi tiếng là rất hiệu quả về mặt di truyền.
Điều này có nghĩa là khi bộ gen của nó được giải trình tự, người ta thấy nó rất nhỏ so với các loài thực vật khác. Tuy nhiên, nó có rất nhiều gen mã hóa hữu ích trong DNA, chỉ thiếu rất nhiều DNA "rác" không mã hóa mà các sinh vật khác đang mắc phải. Ví dụ, bộ gen của con người chỉ bao gồm khoảng 1-2% DNA mã hóa, nghĩa là có tới 99% trong số đó không phải là mã di truyền hữu ích. Tuy nhiên, ở những loài cây bàng này, DNA mã hóa chiếm tới 59% bộ gen của chúng.
Mặc dù quan điểm phổ biến cho rằng bàng quang của cây bàng quang là để bắt và tiêu hóa các vi sinh vật cung cấp chất dinh dưỡng cho cây, nhưng người ta thường quan sát thấy bàng quang chứa các cộng đồng vi sinh vật (vi khuẩn, tảo và tảo cát) sống trong bàng quang, chứ không phải là con mồi, điều này cho thấy rằng bàng quang cũng có thể, và có lẽ quan trọng hơn, có chức năng thiết lập mối quan hệ cùng có lợi với một số vi sinh vật.
Điều này có nghĩa là khi bộ gen của nó được giải trình tự, người ta thấy nó rất nhỏ so với các loài thực vật khác. Tuy nhiên, nó có rất nhiều gen mã hóa hữu ích trong DNA, chỉ thiếu rất nhiều DNA "rác" không mã hóa mà các sinh vật khác đang mắc phải. Ví dụ, bộ gen của con người chỉ bao gồm khoảng 1-2% DNA mã hóa, nghĩa là có tới 99% trong số đó không phải là mã di truyền hữu ích. Tuy nhiên, ở những loài cây bàng này, DNA mã hóa chiếm tới 59% bộ gen của chúng.

10. Brocchinia reducta
Loài này là một loài cây họ dứa ăn thịt hiếm, chỉ là một trong số ít loài trong họ này. Giống như nhiều loài họ dứa khác, những chiếc lá xếp khít vào nhau của nó tạo thành một cái cốc ở giữa để dự trữ nước. Ở hầu hết các loài, điều này có tác dụng bù đắp cho việc thiếu hệ thống rễ phát triển tốt và cho phép chúng giữ nước cũng như hút chất dinh dưỡng từ nước đọng. Ở Brocchinia reducta, nó có một chức năng khác - dụ côn trùng không cảnh giác bằng mùi ngọt ngào của nó và dìm chúng xuống vũng nước, nơi chúng sẽ bị tiêu hóa. Những chiếc lá tạo thành mặt bên của bẫy được bao phủ bởi lớp vảy sáp lỏng lẻo, có nghĩa là bất kỳ côn trùng nào đậu trên chúng đều có khả năng trượt xuống và chết dưới nước.
Với môi trường sống tự nhiên là cỏ và cây bụi, chúng mọc ở những nơi đất trống, cát, đầm lầy, nghèo dinh dưỡng.
Nguồn:
https://gobotany.nativeplanttrust.org/species/utricularia/vulgaris/
https://www.minnesotawildflowers.info/flower/humped-bladderwort#lboxg-1
https://www.discoverwildlife.com/plant-facts/carnivorous-plants

Nguồn:
https://gobotany.nativeplanttrust.org/species/utricularia/vulgaris/
https://www.minnesotawildflowers.info/flower/humped-bladderwort#lboxg-1
https://www.discoverwildlife.com/plant-facts/carnivorous-plants
Tác giả: LB
Tags: xác định, chiến lược, thực vật, sử dụng, động vật, có thể, thức ăn, như vậy, tất cả, khả năng, to lớn, bắc cực, trong khi, săn bắt, tìm kiếm, di chuyển, hạn chế, thay vì, ngọt ngào, răng cưa, răng rắc
Bài viết xem nhiều
-
Bác Hồ với quan điểm bảo vệ môi trường thiên nhiên, phát triển kinh tế xanh bền vững
-
Bướm đêm hầu gái (Handmaiden moths )
-
Tìm hiểu các loài rùa biển: 5 trên 7 loài có mặt ở Việt Nam
-
Phát hiện loài cá mập quý hiếm ở Brazil
-
Những điều thú vị về cá tráp biển
-
Tìm hiểu ngành chân khớp (ARTHROPODA)
-
Khám phá đa dạng sinh học tại rừng quốc gia Yên Tử (P1)
-
Đa dạng sinh học trong bài thơ của nhà thơ Trần Đăng Khoa
-
HA LONG NATURE: Điều thú vị ở bướm đêm diều hâu chim ruồi
-
Báo cáo đa dạng sinh học: Bướm đêm cú mèo