Tìm hiểu các loài rùa biển: 5 trên 7 loài có mặt ở Việt Nam

Chủ nhật - 20/07/2025 00:59
Lịch sử tiến hóa lâu dài của chúng là một câu chuyện thành công thực sự. Không có gì ngạc nhiên khi chúng đã sống sót qua nhiều cuộc tuyệt chủng. Sau hành trình dài như vậy mà không gặp sự cố, liệu rùa biển có thể sống sót trước kẻ thù chính của chúng: con người ?
Rùa biển là các loài thuộc nhóm Bò sát, giống như các loài rùa nước ngọt, ba ba, cá sấu, rắn... Chúng xuất hiện trên trái đất cách đây khoảng 200 triệu năm, trước khi các loài Khủng long ra đời. Mẫu hóa thạch rùa có niên đại cao nhất được tìm thấy là khoảng 215 triệu năm (vào kỷ Đệ tam), lâu hơn bất kỳ mẫu hóa thạch của tất cả các loài động vật bốn chân nào trên trái đất. Nhưng trong khi các loài Khủng long đã bị tuyệt chủng thì Rùa biển vẫn còn tồn tại đến ngày nay nhờ khả năng thích ứng với môi trường biển. Có thể nói các loài rùa biển nằm trong số rất ít các loài sinh vật cổ đại, các hóa thạch sống còn tồn tại đến ngày nay.
Hóa thạch Rùa (Proganochelys) có niên đại lâu đời nhất (215 triệu năm) được tìm thấy tại Đức © Bảo tàng Tự nhiên Stuttgart
Được tìm thấy ở tất cả các đại dương trên thế giới ngoại trừ Bắc Băng Dương, 6 trong số 7 loài đang trong tình trạng dễ bị tổn thương hoặc bị đe dọa. Tình trạng của rùa lưng phẳng (Natator depressus) vẫn chưa được biết do thiếu dữ liệu. Rùa biển được bảo vệ tại địa phương hoặc có kế hoạch phục hồi, nhưng ô nhiễm, nạn săn trộm và đánh bắt ngẫu nhiên bằng ngư cụ vẫn là những nguyên nhân đáng lo ngại gây ra sự suy giảm của quần thể vốn đã rất ít ỏi này.
Hiện nay trên thế giới người ta đã thống kê được 7 loài rùa biển, thuộc 2 họ chính là họ Vích (Cheloniidae) và họ Rùa da (Dermochelyidae)
1. Rùa biển xanh hay Vích (Tên khoa học: Chelonia mydashọ Vích (Cheloniidae)
Rùa biển xanh được đặt tên như vậy vì sụn và mỡ của chúng có màu xanh lục. Chúng dài tới 1,5 m và có thể nặng tới 200 kg. Phân bố rộng rãi ở các vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới, số lượng rùa biển cái có khả năng đẻ trứng ước tính khoảng 203.000 con. Loài này được xếp vào nhóm nguy cấp.
2. Rùa đồi mồi (Tên khoa học Eretmochelys imbricata) họ Vích (Cheloniidae)
Rùa đồi mồi có thể nhận biết bằng chiếc mỏ nhọn và hẹp. Mai rùa sặc sỡ và nhiều hoa văn của chúng là nguồn “mai rùa” thương mại duy nhất. Việc sử dụng mai rùa này bị kiểm soát và/hoặc cấm ở nhiều quốc gia. Rùa đồi mồi thường dài dưới 1 m, nặng từ 40 đến 60 kg, và phân bố ít hơn một số loài khác. Số lượng của chúng đã giảm hơn 80% trong thế kỷ qua, với số lượng rùa cái có khả năng đẻ trứng hiện chỉ còn khoảng 8.000 con. Loài này được xếp vào loại cực kỳ nguy cấp.
 
3. Rùa biển Olive Ridley Lepidochelys olivacea hay Đồi mồi dứa, họ Vích (Cheloniidae)
Rùa biển Olive Ridley trông giống rùa biển Kemp nhưng có mai hình vòm hơn với các cạnh cong lên. Chúng nặng hơn một chút, nặng tới 45 kg. Mặc dù loài này phân bố rộng rãi, nhưng số lượng địa điểm làm tổ hiện nay rất ít. Loài này vẫn chưa phục hồi sau nhiều thế kỷ bị khai thác quá mức, với số lượng rùa biển cái trong độ tuổi làm tổ hiện ước tính khoảng 800.000 con. Loài này được xếp vào nhóm sắp nguy cấp.
 
4. Rùa biển Kemp's Ridley được đặt theo tên của Richard Kemp, người đã phát hiện và nghiên cứu loài rùa này (Tên khoa học Lepidochelys kempii) họ Vích (Cheloniidae)
Với chiều dài trung bình 70 cm và trọng lượng 40 kg, rùa biển Kemp's Ridley là loài rùa biển nhỏ nhất. Phân bố trên một phạm vi hạn chế, chúng làm tổ ở một dải bờ biển hẹp ở Vịnh Mexico. Loài này dường như không di cư rộng rãi qua các đại dương mà di chuyển dọc theo Bờ biển phía Đông của Hoa Kỳ. Được liệt kê là loài có nguy cơ tuyệt chủng, số lượng của chúng đã giảm từ vài trăm nghìn con vào những năm 1940 xuống chỉ còn vài trăm con cái có khả năng đẻ trứng vào những năm 1980. Nhờ những nỗ lực bảo tồn, quần thể rùa biển cái có khả năng đẻ trứng chỉ còn khoảng 1.000 cá thể.
5. Rùa biển đầu to hay còn gọi là Quản Đồng hay Đú (Tên khoa học: Caretta caretta) họ Vích (Cheloniidae)
Rùa biển đầu to có đầu lớn và hàm khỏe: chúng cần đầu to để ăn động vật thân mềm và giáp xác có vỏ cứng. Loài rùa này cũng mang theo nhiều sinh vật có vỏ cứng hơn, chẳng hạn như hà. Giống như rùa biển da, chúng di cư và phân bố rộng rãi. Kích thước trung bình của chúng dài 92 cm và nặng 115 kg. Số lượng rùa cái có khả năng đẻ trứng hiện được ước tính là 60.000 con, và loài này được phân loại là loài sắp nguy cấp.
 
6. Rùa mai phẳng (Tên khoa học: Natator depressus) họ Vích (Cheloniidae)
Rùa lưng phẳng là một loài rùa biển có mai hình vòm thấp đặc trưng. Ở rùa trưởng thành, mai có mép bên cong lên và được bao phủ bởi một lớp da mỏng. Mai có màu ô liu, xám hoặc xám xanh nhạt, với chiều dài cong trung bình là 92 cm. Rùa lưng phẳng có thể được phân biệt với các loài rùa biển khác bởi sự kết hợp của các vảy mai không chồng lên nhau, bốn cặp vảy sườn, mai hình vòm thấp và một cặp vảy lớn ở phía trước và phía trên mắt. Rùa lưng phẳng làm tổ di chuyển trên cạn bằng cả hai vây trước cùng lúc, tạo ra một vệt di chuyển đối xứng trên cát. Loài rùa biển duy nhất khác thường xuyên sinh sản ở Úc và di chuyển theo cách này là Rùa xanh Chelonia mydas. Trứng của chúng lớn (đường kính trung bình là 5,2 cm) so với trứng của các loài rùa khác sinh sản ở Úc.
https://seaturtlesofindia.org/wp-content/uploads/2012/07/Flatback-hatchling-Eridani-Mulder.jpg
Rùa biển lưng phẳng mới nở tại Đảo Peak. Ảnh: Eridani Mulder
https://www.cms.int/sharks/sites/default/files/species/Flatback%202%20SWhiting-sh.jpg
7. Rùa Da hay Rùa biển Luýt (luth) có tên khoa học: Dermochelys coriacea họ Rùa da (Dermochelyidae)
Rùa biển Luýt được đặt tên như vậy vì hình dạng mai của chúng khác biệt so với các loài rùa khác. Đây cũng là loài rùa biển lớn nhất, thường dài tới 180 cm và nặng 500 kg. Chúng cũng là loài di cư nhiều nhất, vượt qua cả Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Phân bố rộng rãi ở vùng biển nhiệt đới và ôn đới, số lượng của chúng đã giảm mạnh ở hầu hết các khu vực trên thế giới trong thế kỷ qua. Số lượng rùa cái có khả năng đẻ trứng hiện được ước tính là 34.000 con, và loài này được phân loại là loài có nguy cơ tuyệt chủng.
Rùa da mắc lưới tại biển QUảng Nam và được các ngư dân thả rùa về lại biển cả - Ảnh: V.R.
Đẻ trứng
Chỉ có rùa cái mới rời biển để đẻ trứng trên bãi biển, và việc này chủ yếu diễn ra vào ban đêm. Trứng được đặt trong một cái hố đào trên cát. Tùy thuộc vào loài, quá trình này có thể mất từ vài phút đến vài giờ. Do phải xa môi trường sống quen thuộc trong quá trình đẻ trứng, rùa cái rất dễ bị tổn thương và trở thành con mồi dễ dàng. Sau khi lấp đầy lỗ chứa trứng, rùa cái trở về biển trong tình trạng kiệt sức.
Trứng rùa biển có thể ấp nhân tạo được không?
Trứng rùa biển có thể được ấp nở trong các hồ ấp nhân tạo, tuy nhiên công việc
này phải được những người đã được đào tạo thực hiện. Các nghiên cứu được thực hiện ở
Ma-lai-xia (Sabah, Sarawak, Redang và Rantau Abang), Phi-líp-pin và Thái lan cho thấy các hồ ấp không được che phủ sinh ra 100% là rùa cái, hồ ấp trong bóng râm sinh ra 100% là rùa đực, trong khi tại các ổ tự nhiên tỷ lệ này là 80% rùa cái và 20% rùa đực.

Trong chế độ sinh tồn
Những giờ đầu tiên trong cuộc đời của rùa biển là một thử thách thực sự. Vừa mới thoát khỏi trứng và cát, rùa con phải lao ra biển để trốn tránh kẻ thù: chim biển, cua, v.v.
Chế độ ăn
Động vật ăn tạp: lá cây, thực vật, cỏ, động vật thân mềm, giáp xác, thực vật phù du, động vật phù du, sứa và thậm chí cả bọt biển.
Tại các vùng biển ở Việt Nam, có 5 (trong số 7 loài) rùa biển có thể được tìm thấy. Trong 5 loài này, có Vích, Đồi mồi, Rùa da, Đồi mồi dứa Quản đồng  đã từng sinh sản tại vùng biển Việt Nam. Riêng Quản đồng chỉ kiếm ăn chứ không sinh sản tại vùng biển nước ta.
Loài đồi mồi dứa phân bố nhiều ở các khu vực vịnh Bái Tử Long và các tỉnh miền Trung (từ Hà Tĩnh đến Phú Yên). Hiện nay chỉ còn khoảng 10 con lên đẻ mỗi năm tại một số bãi biển thuộc khu vực Bái Tử Long, bán đảo Sơn Trà và tỉnh Quảng Bình.
Rùa con sinh ra nhiều như vậy thì tại sao lại phải bảo vệ chúng?
Số lượng rùa con sinh ra từ mỗi ổ trứng là nhiều, trung bình khoảng 80% số trứng được ấp sẽ nở thành con non, nhưng do thời gian đạt độ tuổi trưởng thành lâu (từ 15 đến 30 năm tùy loài) và nhiều loài địch hại, nên chỉ một trong số 1/1000 đến 1/10.000 con non sinh ra có thể sống sót đến tuổi trưởng thành. Khi con non mới sinh ra rất yếu ớt, lại phải băng qua bãi biển trống và vùng nước nông ven bờ, nơi có rất nhiều động vật ăn thịt sinh sống. Trên bãi biển, con non có thể bị các loài như kiến, cua, kỳ nhông, chó, mèo... ăn thịt. Khi xuống mặt nước và bơi qua vùng nước nông ven bờ thì bị các loài cá lớn, chim... ăn thịt. Ước tính chỉ có khoảng 40%-50% tổng số con non sinh ra trên bãi biển có thể sống sót ra đến đại dương.
Danh sách các loài Rùa biển có nguy cơ tuyệt chủng tại Việt Nam

Tham khảo:
https://www.wwf.fr/especes-prioritaires/tortues-marines
https://vibienxanh.vn/1.3.1-rua-bien.html
https://seaturtlesofindia.org/the-lost-years/
https://www.cms.int/sharks/es/species/natator-depressus    
https://noidinosauri.it/dinosauri/proganochelys/
Chu Thế Cường, Bùi Thị Thu Hiền. 2015. Bảo tồn rùa biển 101 câu hỏi và trả lời

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây